• RBC (red blood cell) : là số lượng hồng cầu có trong một đơn vị máu. Đơn vị T/l
• HGB: Nồng độ hemoglobin trong máu. Đơn vị tính bằng g/l hay g/dl (tương đương mg%), đo hàm lượng hemoglobin trong máu.
• HCT - Hematocrit : dung tích hồng cầu, đây là phần trăm thể tích của máu mà các tế bào máu (chủ yếu là hồng cầu) chiếm.
• RDW: RDW là thông số phân bố kích cỡ hồng cầu (Red cell distribution width). Chúng ta hay bắt gặp 2 thông số là RDW-SD và RDW-CV. Nó cho biết sự sai khác về kích cỡ giữa các tế bào hồng cầu. RDW-SD cho ra thông số thể tích thực, RDW-CV cho ra con số %. RDW-SD có giá trị hơn so với các bác sĩ. Máy huyết học nào có thông số RDW-SD sẽ tốt hơn máy chỉ có RDW-CV. Dải giá trị tham chiếu của 2 thông số:
RDW-SD: 29-46 fL
RDW-CV: 11.6 – 14.6% (với người lớn)
RDW-CV: 11.6 – 14.6% (với người lớn)
Để hình dung tốt hơn chúng ta có thể tham khảo hình. MCV nghĩa là thể tích trung bình hồng cầu. MCV thường từ 80 - 96 fL.
• Các chỉ số hồng cầu:
o MCV - thể tích trung bình hồng cầu, đơn vị thường dùng là femtolit (1 fl = 10-15lit)
Bình thường : 90+- 5 fl
MCV được tính bằng công thức: MCV = HCT / RBC. Giá trị MCV cho phép phân biệt các loại thiếu máu sau:
Thiếu máu hồng cầu nhỏ - còn gọi là thiếu máu nhược sắc: khi MCV < 80 fl
Thiếu máu hồng cầu to – còn gọi là thiếu máu ưu sắc: khi MCV > 100 fl
Thiếu máu hồng cầu đẳng sắc : MCV bình thường
Lí giải: Hemoglobin là một protein, do vậy nó cũng gây ra áp lực keo bên
trong tế bào hồng cầu, điều này làm tế bào trương to, màng hồng cầu
căng ( trong ưu sắc), hay teo nhỏ, màng hồng cầu nhẽo ( trong nhược
sắc). Còn thiếu máu đẳng sắc không ảnh hưởng đến chất lượng tế bào hồng
cầu.
o MCH - số lượng hemoglobin trung bình trong một hồng cầu, đơn vị thường dùng là picogram (1 pg = 10-12g)
MCH được tính theo công thức: MCH = HGB / RBC
Bình thường : 30 +-3 pg.
Tăng trong thiếu máu ưu sắc, giảm trong thiếu máu nhược sắc, bình thường
trong thiếu máu đẳng sắc. Điều này dễ hiểu, không cần giải thích dài.
o MCHC - nồng độ hemoglobin trung bình trong hồng cầu (chú ý, không có “một”), đơn vị thường dùng là g/l
MCHC được tính theo công thức: MCHC = HGB / HCT = MCH / MCV.
Bình thường : 290 – 360 g/l. Thực tế không bao giờ tăng trên 360, vì khả năng bão hòa của hông cầu chỉ đến thế mà thôi.
Thiếu máu đẳng sắc hoặc ưu sắc: khi MCHC trong giá trị bình thường
Thiếu máu nhược sắc: khi MCHC < 290g/l
Trong 3 chỉ số hồng cầu, chỉ số nào quan trọng nhất? MCH, MCV, MHCH? Câu hỏi này dành cho bạn.
Thông thường, các bác sỹ dựa vào nồng độ hemoglobin để chẩn đoán và đánh giá mức độ thiếu máu, và dựa theo định nghĩa sau:
Thiếu máu khi nồng độ Hb thấp hơn:
• 130g/dl ở nam giới
• 120g/dl ở nữ giới
• 110g/dl ở người lớn tuổi
Sau đó, để xác định tính chất thiếu máu, ta dựa vào các chỉ số hồng cầu
- Đẳng sắc: 3 chỉ số bình thường
- Nhược sắc: giảm cả 3 chỉ số
- Ưu sắc: MCH,MCV tăng còn MCHC bình thường
Dòng bạch cầu
• WBC (white blood cell): là số lượng bạch
cầu có trong một đơn vị máu, được ký hiệu là Giá trị bình thường 5-9G/ l
. Số lượng bạch cầu tăng cao trong các bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, và
đặc biệt cao trong các bệnh bạch huyết cấp hoặc mãn tính (ung thư máu -
leucemie).
• Công thức bạch cầu: là tỷ lệ phần trăm các loại bạch cầu trong máu. Sự thay đổi tỷ lệ này cho nhiều ý nghĩa quan trọng.
o Bạch cầu trung tính: là những tế bào
trưởng thành ở trong máu tuần hoàn và có một chức năng quan trọng là
thực bào (người ta còn gọi tên khác là “tiểu thực bào”), chúng sẽ tấn
công và phá hủy các loại vi khuẩn, virus ngay trong máu tuần hoàn khi
các sinh vật này vừa xâm nhập cơ thể.
Tăng trong: Nhiễm khuẩn cấp
Giảm trong: Nhiễm độc, hoặc nhiễm khuẩn cấp nặng (lúc này độc tố vi khuẩn ức chế, tiêu diệt lại tế bào bạch cầu)
o Bạch cầu đa nhân ái toan: khả năng thực
bào của loại này yếu, nên không đóng vai trò quan trọng trong các bệnh
nhiễm khuẩn thông thường. Bù lại, trong bào tương của chúng có các hạt
bắt màu acid và men histaminase, người ta chưa hiểu rõ cơ chế hoạt động
nhưng cho rằng chúng có vai trò trong ức chế quá trình viêm.
Tăng cao : nhiễm ký sinh trùng,. bệnh lý ngoài da như chàm, mẩn đỏ trên da...
Giảm: Giai đoạn đầu của nhiễm khuẩn cấp hay dị ứng. Vì giai đoạn này bạch cầu
ái toan hoạt động mạnh nhưng chưa được sản sinh bù đắp nên giảm.
Nói chung giai đoạn đầu của nhiễm khuẩn bạch cầu ái toan sẽ
giảm, sau đó sẽ hồi phục lại bình thường. Nếu bệnh nhân nhiễm kí sinh
trùng hay dị ứng thì sẽ tăng vào thời điểm sau.
o Bạch cầu đa nhân ái kiềm: đóng vai trò quan trọng trong một số phản ứng dị ứng.
o Mono bào: là dạng chưa trưởng thành của
đại thực bào trong máu vì vậy chưa có khả năng thực bào. Đại thực bào là
những tế bào có vai trò bảo vệ bằng cách thực bào, khả năng này của nó
mạnh hơn của bạch cầu đa nhân trung tính. Chúng sẽ phân bố đến các mô
của cơ thể, tồn tại tại đó hàng tháng, hàng năm cho đến khi được huy
động đi làm các chức năng bảo vệ. Vì vậy mono bào sẽ tăng trong các bệnh
nhiễm khuẩn mãn tính như lao, viêm vòi trứng mãn...
o Lympho bào: đây là những tế bào có khả
năng đáp ứng miễn dịch đặc hiệu của cơ thể, chúng có thể trở thành những
tế bào "nhớ" sau khi tiếp xúc với tác nhân gây bệnh và tồn tại lâu dài
cho đến khi tiếp xúc lần nữa với cùng tác nhân ấy, khi ấy chúng sẽ gây
ra những phản ứng miễn dịch mạnh mẽ, nhanh và kéo dài hơn so với lần
đầu.
Tăng tuyệt đối trong nhiễm khuẩn mạn, nhiễm virus cấp
Giảm tương đối trong nhiễm khuẩn cấp ( do bạch cầu đa nhân tăng tuyệt
đối trong khi số lượng tuyệt đối của lympho có thể bình thường hoặc giảm
nhẹ)
Giảm tuyệt đối trong một số bệnh về máu hoặc nhiễm độc...
Có thể hình dung như sau: Khi cơ thể nhiễm khuẩn (đóng vai trò kháng
nguyên lạ với cơ thể, xâm nhập vào cơ thể với mục đích xấu), phản ứng
đầu tiên là đáp trả bằng đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu ( lính thường
trực – bạch cầu đa nhân). Sau một thời gian chiến đấu, một số bạch cầu
bắt được vi khuẩn và đem về sau “chiến tuyến” trình diện kháng nguyên
cho cơ quan lympho (đóng vai trò kích thích miễn dịch đặc hiệu). Sau một
hồi tra tấn, hay tra khảo gì đó, cuối cùng ta biết được đặc điểm, tính
chất, đường hành quân của địch... lúc này các lymphocyte mới thực hiện
nhiệm vụ đào tạo, chuẩn bị vật chất phù hợp với trận đánh tổng lực để
tiêu diệt triệt để đối tượng kia. Cuối cùng, người thu dọn chiến trường
là các đại thực bào, sau khi lật từng cái xác, thu gom, tổng hợp kết quả
trận đánh, biết thêm thông tin về địch, lại tiếp tục trình diện kháng
nguyên (mức độ cao và phức tạp hơn) cho tuyến sau... cứ thế quá trình
đáp ứng miễn dịch ngày càng được củng cố.
Nói đến bạch cầu là nói đến chỉ số chuyển nhân
Chỉ số chuyển nhân là chỉ số tương quan giữa bạch cầu non và bạch cầu
trưởng thành trong máu ngoại vi được biểu hiện bằng công thức sau
CSCN = (Tuỷ bào + Hậu tuỷ bào + Bạch cầu đũa)/Bạch cầu đa nhân E,B,N = 0,03 – 0,08
Ý nghĩa
- CSCN chuyển trái (> 0,08): Đây là biểu hiện tăng sinh của
các tế bào trẻ do tuỷ xương bị kích thích tăng hoạt động để đáp ứng nhu
cầu của cơ thể.
• Chuyển trái vừa phải: CSCN = 0,08 – 0,25 , các tế bào trẻ
tăng vừa phải thường tăng bạch cầu đũa. Mức độ nhiễm khuẩn không nặng
lắm và chức năng tuỷ xương hoạt động tốt.
• Chuyển trái mạnh: Khi CSCN = 0,25 – 0,5 do tế bào trẻ tăng
mạnh , máu ngoại vi xuất hiện nhiều bạch đũa, có thể cả hậu tuỷ bào và
tuỷ bào. Thường là nhiễm khuẩn nặng, chức năng tuỷ bị rối loạn, khả năng
biệt hoá của tế bào giảm.
• Chuyển trái rất mạnh: CSCN = >0,5 , thường là bệnh của cơ quan tạo máu, khả năng biệt hoá của tuỷ xương bị rối loạn.
- CSCN chuyển phải (< 0,03)
• Giảm dưới 0,02 thường rất ít hay không có bạch cầu đũa, là biểu hiện của tuỷ xương bị ức chế.
Dòng tiểu cầu
• PLT: cho biết số lượng tiểu cầu có trong
một đơn vị máu. Số lượng tiểu cầu bình thường là 150-300G/l máu. Tiểu
cầu có vai trò quan trọng trong quá trình đông cầm máu, vì vậy khi số
lượng tiểu cầu giảm dưới 100G/l máu thì nguy cơ xuất huyết tăng lên.
• Thể tích trung bình tiểu cầu: MPV - cũng được tính bằng đơn vị femtolit, giá trị bình thường từ 7,5-11,5 fl
• Tương tự như hồng cầu, cũng có PDW...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét